Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

Nghĩ từ thần thoại

http://www.phunuonline.com.vn/the-gioi/nghi-tu-than-thoai-8493/


Biển xuất hiện rất sớm trong văn chương Trung Quốc. Thần thoại kể rằng: con gái nhỏ của Viêm đế đi chơi ở biển Đông (đông Trung Quốc) bị chết đuối, linh hồn hóa làm chim Tinh Vệ, ngày ngày ngậm cành cây, viên sỏi lấp biển.
“Tinh Vệ lấp biển” cùng với “Nữ Oa vá trời”, “Ngu Công dời núi” làm thành bộ ba thần thoại thể hiện ý chí kiên cường (vá trời, dời núi, lấp biển) của dân tộc Trung Hoa. Xưa nay, người Trung Quốc luôn tự hào ngợi ca hình tượng “Tinh Vệ điền hải” này.
Đến đầu thế kỷ XXI lại có bộ phim truyền hình Chuyện nàng Tinh Vệ ngợi ca ý chí lấp biển của con gái Viêm đế. Có thể họ muốn dựa vào ý chí Tinh Vệ để tiếp sức cho hành động đem đất đá ra lấp biển để làm đảo nhân tạo chăng?
Thần thoại là dạng nguyên hợp của tâm thức nhân loại buổi sơ khai. Thần thoại của mỗi tộc người thường, một cách tự phát, vẽ nên những đường nét cơ bản của tâm tính, cốt cách dân tộc mình.
Qua thần thoại “Tinh Vệ lấp biển” có thể thấy mấy “đường nét” chính:
- Con gái nhỏ của Viêm đế chết đuối ở biển đông. Chữ “nịch” (chết đuối) là một chữ hội ý gồm bộ “thủy” (nước) và chữ “nhược” (yếu), yếu trong nước...
- Nhưng lòng căm hận và ý chí của con gái Viêm đế không chết, quyết “lấp bằng biển xanh”.
Công bằng mà nói, ý chí ấy thật đáng nể.
Dân tộc Trung Hoa (gồm 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm 92%, tức hơn một tỷ người) vẫn tự xưng là “Viêm Hoàng tử tôn” (con cháu của Viêm đế và Hoàng đế). Qua sự sáng tạo, truyền tụng và tự hào về hình tượng “Tinh Vệ” có thể thấy “Con cháu Viêm Hoàng” úy kỵ và khước từ biển cả.
Sau thần thoại “Tinh Vệ lấp biển”, người Trung Quốc đã ứng xử thế nào với biển?
Người Trung Quốc vốn yên tâm và tự hào với “Tứ hải chi nội”.Mục “Tứ hải” trong sách Từ hải (Thượng Hải từ thư xuất bản xã 1993) nói rõ: “Vì đời xưa cho rằng bốn phía Trung Quốc là biển nên gọi Trung Quốc là “Tứ hải chi nội”, những nước ở ngoài Trung Quốc thì gọi là “hải ngoại”. (vậy nên thuế xuất nhập khẩu thường thu trên đất liền vẫn được gọi là “thuế hải quan”).
“Tứ hải chi nội” (thường nói tắt là “tứ hải” hoặc “hải nội”) là một cách nói phiếm chỉ, đồng nghĩa với từ “thiên hạ”. Cũng Từ hải nói rõ: “Thiên hạ: thời cổ dùng để chỉ đất đai trong phạm vi Trung Quốc; toàn Trung Quốc. “Thư - Đại vũ mô” (nói rằng): “Ta có bốn biển, làm vua thiên hạ” (Yêm hữu tứ hải, vi thiên hạ quân)” - (Từ hải - tr. 1378).
Vậy: “Tứ hải chi nội” (hoặc “tứ hải”, “hải nội”) = thiên hạ = Trung Quốc.

Người Trung Quốc gặp cái gì rộng lớn mênh mông hoặc sâu thẳm khó dò, hoặc nhiều không kể xiết .... thì gọi là “hải” (biển) để hình dung - chẳng hạn như “tuyết hải” (biển tuyết); “vân hải” (biển mây); “nhân hải” (biển người)... thậm chí rừng mà cũng nói “lâm hải” (biển rừng) và bộ từ điển vào loại có uy tín nhất của Trung Quốc được gọi là Từ hải (biển từ)...
Nhà thơ Trung Quốc đầu tiên thực sự nói đến biển là Tào Tháo (155 - 220), nhưng ông cũng chỉ “quan thương hải” (nhìn biển xanh) mà thôi. Thơ Trung Quốc ít nói về biển và biển thường chỉ xuất hiện trong “mộng”, “tưởng” hoặc trong tầm “nghe”, “nhìn”. Mãi đến cuối đời Tống (960 - 1279), khi nhà Nguyên của người Mông Cổ diệt nhà Tống, Tả thừa tướng Lục Tú Phu (1236 - 1279) cõng ông vua ấu thơ Đế Bính (vua cuối cùng của nhà Nam Tống) nhảy xuống biển tự tận. Nhà Tống mất, Trung Quốc bị người Mông Cổ thống trị trăm năm.
Thế giới, cuộc đời luôn vận động - biến dịch vô thường. Thời cổ, con gái Viêm đế từng “yếu trong nước”, nhưng “con cháu Viêm Hoàng” không mãi mãi “yếu trong nước” như vị “tổ cô” của mình. Sử sách còn ghi “trong khoảng 28 năm từ 1405 đến 1433, Trịnh Hòa (1371 - 1433) đã phụng mệnh triều đình nhà Minh, suất lĩnh đội quân hàng hải đông đúc, bảy lần “xuất sứ” đến hơn 30 nước và địa khu ở Á - Phi. Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử hàng hải và ngoại giao Trung Quốc....”.
Nếu sử sách Trung Quốc ghi chính xác thì người Trung Quốc đi tàu viễn dương sớm nhất thế giới. Sở dĩ nói “nếu... chính xác” là vì: tuy các học giả, cả phương Đông và phương Tây, phần lớn đều thừa nhận Trung Quốc là “xứ sở của sử gia”, sách lịch sử của Trung Quốc nhiều vô địch, nhưng độ tin cậy không cao, cùng một sự kiện mà các sách ghi khác nhau khá nhiều (có thể hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Trung Quốc).
Có lẽ việc Trịnh Hòa “hạ Tây dương” là có thật, và từ đời Minh (1368 - 1644) người Trung Quốc đã mở ra “con đường tơ lụa” trên biển, tàu buôn Trung Quốc đã từng đến Đại Việt nên người Việt ta mới gọi họ là “người Tàu”. Nhưng đến đời Thanh (1644 - 1911) họ lại coi thường (nếu không nói là “sợ”) việc đi biển. Đặc biệt đến cuối đời Thanh thì sự “dị ứng” với biển càng nặng, đến mức Từ Hi thái hậu (1835 - 1908), kẻ nắm đại quyền của triều đình Mãn Thanh đã “di dụng” kinh phí hải quân vào việc “trùng kiến Di Hòa viên” vì bà ta và đám đại thần nhà Thanh bấy giờ cho rằng “... Nước Trung Quốc ta toàn là đất liền thì dùng hải quân làm quái gì...”
Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc ghi nhận: “Năm Quang tự thứ 21 (1892) bỏ hẳn “hải quân nha môn”. Di Hòa viên xây dựng gần 10 năm, chi phí khoảng sáu triệu lạng bạc”!
Khi liên quân tám nước (Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Nga, Mỹ, Nhật) đổ bộ vào cảng Thiên Tân rồi chiếm Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu cùng Quang Tự hoàng đế và đám đại thần dắt díu nhau chạy trốn vào Tây An. Liên quân tám nước phá Di Hòa viên, “qua phân” (mổ dưa) Trung Quốc.
Chính vì triều đình Mãn Thanh coi thường (thực chất là sợ) đi biển như thế nên Lương Khải Siêu (1873 - 1929) mới yên tâm thực hiện cuộc “viễn du” lánh nạn sau thất bại của cuộc “Duy tân 100 ngày” (bách nhật duy tân).
Nhờ có tàu “viễn dương” từ Nhật sang Mỹ mà vị lãnh tụ của phong trào cải lương không bị “nịch tử”, cũng không có ý “lấp biển” như Tinh Vệ. Biển giúp ông lánh nạn khi lục địa Trung Hoa dậy sóng. Ông yên tâm “tác viễn du” vì biết chắc triều đình nhà Thanh nhát gan bất lực không thể vượt biển sang Mỹ truy nã mình.
Thế giới biến dịch vô thường...


THƯỜNG NHIÊN

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

Trên



SÂN GA
Đứa ở trên toa, đứa dưới tàu
Tôi về em ở nhớ thương nhau
Mà mưa ướt lạnh, trời mưa ướt
Có phải chăng đây những giọt sầu ?


Đây cuộc chia xa khá ngậm ngùi
Hợp tan, tan hợp nhói tim tôi
Bao năm chung sống thành tri kỷ
Em ở, tôi về nhớ mãi thôi ...

Tôi thương em lắm tuổi chín mười
Sống xa cha mẹ, cảnh mồ côi
Cơm thố, giường đơn, chăn chiếu mỏng
Mấy mùa đông lạnh buốt tim tôi

Ở lại quê người em nhớ không
Tôi về thương lắm những mùa đông,
Áo cũ, chăn sơ không đủ ấm ...
Con tàu chuyển bánh nhớ mênh mông ...
                     
                                         Đầu Thu năm 1973 VAV
                                              ( Một thời để nhớ - Tặng Quế về sau 1973 )





Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

MV 0076

MVI 0079

MVI 0078

KỶ NIỆM 50 NĂM THÀNH LẬP TRƯỜNG NVT

Năm mươi năm mới có một lần 50 năm. Đợt này Trỗi  tổ chức "sinh nhật" Trường khá hoành tráng. Tất nhiên, khách mời không thể thiếu các bạn trường Bé- người anh em thân thiết.

Do các quế không tự giới thiệu nên tôi vẫn chưa biết tên các đ/c. Các quế giúp cho.

đ/c tóc bạc đứng sau là AMK3- nguyên "Mama đại tổng quản"Blog Quế


Tôi mời chị Phan thị Quyên chụp chung với Quế. Một chút kỷ niệm gọi là...




Đại diện trường NVB phát biểu ...



giao lưu


chỉ có Quế mới hiểu ?!

Giao lưu văn nghệ

Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2015

Dương Sóc

THỨ HAI, THÁNG 11 05, 2007

   Thanh Minh

(Có sử dụng tư liệu ảnh của HT)
Đi TQ có mấy ngày mà thấy nhãn quan anh em mình khai mở ghê quá. Kiểu này e dân du lịch ba lô sẽ thành những người thông thái nhất thế giới!?
Cái hay của chuyến đi chính là cùng một sự vật, hiện tượng nhưng mỗi người lại có cách nhìn, cách cảm nhận khác nhau - theo kiểu của mình. Thế giới trở nên đa dạng vì thế, và đây cũng là điều làm cho các chú ở nhà cứ phải liếm mép.
Tôi cũng vậy. Có thể mắt mình bị “lé”, nên hay nhìn thấy những chuyện vặt vãnh để bổ khuyết vào cái nhìn chính thống, tầm cỡ của anh em. Mong sao bức tranh mô tả TQ được toàn cảnh.
- Đầu tiên phải nói đến nghệ thuật moi tiền du khách của anh Ba mình quá giỏi. Bạn nghĩ gì khi chi 2,5 triệu VNĐ cho chuyến du lịch 5 ngày, 4 đêm gồm cả ăn, ở đàng hoàng? Rẻ bất ngờ đến vô lý … Song “võ Tàu”chính là ở đây. Họ mở rộng cửa đầu này nhưng lại xiết chặt cửa đầu kia. Mình cảm thấy mỗi cái cây, dòng sông, mỏm đá, được họ đầu tư thêm chút đỉnh, đều có thể biến thành những cỗ máy in tiền. Các dịch vụ tham quan thắng cảnh, di tích lịch sử … họ “chặt” khách rất ác (xem giá biểu ở các bài khác), mà khách du lịch thì không thể nằm khách sạn đóng cửa ngủ cho nó … lãi được! Kế ấy gọi là “thả con săn sắt bắt con cá rô”.
- Năm xưa vào nhà hàng hải sản ở phố Thi Sách SG. Tôi thấy lão chủ quán cắt một bài báo, lồng kính treo trang trọng lên tường. Đó là bài viết về Vua bếp của Bỉ đến nhà hàng, xơi món cua rang me VN và khen nức nở. Đấy cũng là một cách tiếp thị hay.
Tôi rất thích và ấn tượng với các bài nhận xét của các thực khách TQ dán đầy tường của quán “Điền Dã” trong ảnh của HT (tôi có 1 cái ảnh chụp chi tiết, bạn nào dịch thử?). Các bài do bọn trẻ viết và vẽ trên giấy tập học sinh rất trào lộng. Cháu Việt Hoa (con chị Niệm), dịch thử cho tôi một bức tranh khác vẽ 3 thằng xì-tin đeo kính đang ngồi gắp con cá với lời chú “3 người, 12 con mắt và 1 con cá rất ngon” (12 con mắt là 3 thằng đeo kính cận). Có phải đây cũng là một dạng văn hóa?
Con cá khuyến mãi trong ảnh tên gọi là “Cá Ly Giang” danh từ riêng (mà cũng là cá sông Ly). Con này giống cá ngạnh của ta nhưng người tròn lẳn, da đen và thịt trắng tinh, ngọt và thơm ngon hơn.
Bên dưới là ảnh bình rượu Lão QL “đi” cùng con cá. Hẳn món này cũng làm nên đặc sản QL.
- Tôi ngắm rất lâu con chim cốc của sông Ly như một nhà điểu học. Bên ta không có con cốc loại này. Cốc ta có 2 tên gọi (cốc ngoài Bắc) và con cồng cộc (trong Nam). Con cốc của ta đen thui nhỏ chưa bằng nửa con cốc ngoại.
Cốc ngoại to con, lông đen hơi xám và bộ mặt cô hồn, dữ tợn hơn. Chúng đều bắt cá rất giỏi. Sau khi huấn luyện, người ta dùng chúng lùa cá vào lưới bén hoặc đeo vòng vào cổ chúng, để chúng chỉ có thể bắt cá đưa lên mà không nuốt được mồi. Con người quả ranh ma.
Ngày xưa con cốc QL chỉ đậu trên những chiếc bè lồ ô uốn cong đầu, xuôi ngược trên dòng Ly thơ mộng. Ngày nay con cốc được huy động như một minh tinh, chụp ảnh chung với du khách làm nên những đồng tiền cho chủ …
- Quế hoa: Mỗi địa phương thường chọn cho mình một loại cây làm biểu tượng: Dừa bến Tre; cây cọ Malaixia; cây tre VN, hoa sữa HN, bạch dương Nga, … con người sẽ đi rất xa và ấp ủ trong lòng loài cây mà mình yêu mến như một kỷ niệm quê hương …
Cây quế hoa biểu tượng của QL giống như cây viết bên mình (trồng trong BV Thống nhất), nó thuộc loại cây bóng mát tầm thấp (ít rụng lá , sạch, tán đẹp, không mọc cao để khỏi đụng dây điện). Loại này có hoa màu trắng hoặc vàng nhỏ li ti (xem ảnh), tỏa hương thơm ngầy ngật như hoa sữa. Trong mỗi túi quà của Y Trung có bỏ một nhánh quế hoa. Tôi còn bẻ thêm một nhánh mang về định vặt lá “bán” cho anh em làm kỷ niệm và kiếm chút tiền bù lỗ …
Nhiều anh em nhầm lẫn, vỏ cây quế hoa hoàn toàn khác với quế vỏ bên mình. Nó không có mùi quế và cũng chẳng cay cho nên công dụng của nó chắc chỉ nhằm tạo bóng mát, cảnh quan và gợi lên những hoài niệm xa mờ …
- Cuối cùng là cái tên Dương Sóc. Có người trong đoàn thắc mắc về cái tên này: Đã “dương” rồi lại còn đòi “sóc”nữa. Em chịu, cái này vượt quá tầm hiểu biết, chắc phải cậy anh Chí – nhà nghiên cứu văn hóa tra cứu giúp!
Dân làm du lịch nói chưa “đáo” DS thì coi như chưa đến QL. Khi mình đến DS chúng lại bảo chưa “đáo” phố Tây thì chưa biết DS. Tôi đến đầu phố Tây, thằng guide DL nó nói cái hay, cái đẹp nó nằm ở giữa phố kia, thế là lại phải “đáo” tiếp đến giữa phố. Lòng tự hỏi lòng “mình có thấy gì không nhỉ?”. Đang ngơ ngác thì lại nghe lời động viên – nơi tuyệt vời nhất là đoạn cuối phố, …
Chân đưa chân, du khách thẫn thờ. Cuối phố là đây, bến tàu đang đợi. Một một ngư ông với hai con cốc trên sào chờ chụp ảnh. Trên bờ kè hai cô gái Tây ba lô nằm, ngồi chết vật - chắc họ cũng vừa phải “đáo” như ta!




* Nhân chuyện Quế đi QL tôi gửi các bạn bài này (trên Blog Trỗi 2007) đọc cho vui.

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015

Lướt sóng Ly Giang về Dương Sóc

Sau khi về thăm trường cũ, trường mới, ngày 23/7/2015 cả đoàn lên xe đến bến thuyền để thực hiện chuyến hành trình "lướt sóng Ly Giang về Dương Sóc".
Hình 1: Bến thuyền Ly Giang.

Nhớ Anh Trần Văn Hoàng




   Bao nhiêu lần định viết về anh, nhưng rồi lần lữa mãi do công việc cũng có mà chính là lười viết, cho đến hôm nay trước ngày giỗ đầu của anh (năm thứ ba). Thế mà đã tròn ba năm ngày anh về với mẹ, trung Thu năm 2012. Anh và tôi cùng họ Trần nhưng anh ở Duy Xuyên tôi Điện Bàn với hai nhà thờ Tổ khác nhau. Cuộc đời đưa đẩy để anh em chúng tôi gặp nhau, sống và công tác cùng nhau một thời. Không làm lễ cắt máu ăn thề nhưng trong thâm tâm anh coi tôi và thằng Tám (Nguyễn Đỗ) như hai đứa em ruột và hai đứa tôi cũng coi anh như anh Hai mình.
   Nhớ lại hồi 1982, lúc đó tôi còn sinh viên tham gia dọn nhà cho ông bạn Quế Dương Xuân Bình, hắn chiếm đại một căn hộ trong khu tập thể trường Trung cấp vừa giải tán, vợ hắn sắp sinh con đầu lòng mà không có chỗ chui, đành thế. Đang loay hoay dọn dẹp nhìn sang căn hộ bên cạnh thấy một cha trông mặt quen quen. Hỏi Xuân Bình: Ai vậy? À, đó là anh tên Hoàng, nghe đâu cũng là HSMN Đông Triều. Nhìn qua thấy phu nhân ông anh HSMN lớp trước cũng mang bầu lặc lè. Vậy là cùng cảnh ngộ với Xuân Bình, nên quả liều giống nhau. Lân la hỏi thăm mới biết anh học lớp 10K năm 1975 ở Đông Triều. Và rồi tôi nhớ ra anh: Anh Hoàng ở Duy Xuyên. Ừ, răng biết. Anh không nhớ em? Hồi ở Quế Lâm về năm 75 em ở phòng anh. A, mày là em thằng Ba Mập, Dũng nhớ rồi. Hồi ở Hà Nội tao gửi sách sức bền và vẽ kỹ thuật về cho mày mà gặp thì quên mất, hèn gì tao thấy quen quen. Những năm sau giải phóng, trường mới sách vở thiếu phải học chung, tôi gửi thư cho ông anh học Trường An ninh, anh ấy nói lại với anh Hoàng BKHN nên được hưởng lợi ( Chắc là anh cũng chôm của trường gửi cho thằng em, chứ mần chi có của riêng, là tôi suy diễn thế).
    Ở Quế Lâm về tôi theo chị Hai tôi về K20 trên Phú Thọ nên về Đông Triều sau các bạn trong lớp. Hội Quế Lâm về ở Khu lớp học, trải chiếu nằm nền xi-măng. Anh Huỳnh Văn Tân đón tôi ở Hà Nội đưa về Đông Triều và cho tôi vào ở với lớp 10K, lớp cũ của anh Ba tôi, lúc đó còn chưa đến chục anh chị vì nhiều người đã vượt tuyến về thăm quê Miền Nam. Tôi tự nhiên được trở thành “học sinh chờ 10K” đúng nghĩa ( được phân cho một cái giường, có chăn mùng và ăn cơm ké ) ( Không phải “học sinh 10 K chờ”). Tôi nhớ ở lớp 10K lúc đó ngoài anh Trần Văn Hoàng còn có các anh: Nguyễn Đình Chiến, Trần Phước Hảo, Thái Võ Trang, Võ Cang (mập),Võ Thanh, Minh Chiến, Phước, Long…Mấy hôm sau thì có anh Ngũ về Miền Nam mới ra. Tóc dài, áo chẽn, quần loe, dép sapo, đúng mốt Miền Nam lúc đó, trông bảnh chọe. Đến bữa ăn, các anh nhận cơm từ nhà bếp về phòng ở, anh Hoàng cấp cho tôi một cái thìa và bảo: Ăn cơm Dũng. Tôi đang lúng túng không biết xoay xở ra sao thì thấy các anh đã xúm quanh mâm cơm dưới nền nhà mỗi người một cái thìa và…xúc. Tôi cũng là theo, rồi quen dần. Có một hôm đến bữa ăn, mọi người đang chuẩn bị thao tác thì thấy có một anh da trắng trẻo, người dong dỏng bước vào phòng. Các anh gần như đồng thanh: Mời thầy ăn cơm! (Sau này tôi biết đó là thầy Bắc dạy toán và cũng là chủ nhiệm lớp chuyên toán 10K) Tôi thấy thầy thò tay vào túi quần sau rút ra một cái…thìa và cùng ngồi ăn cơm tự nhiên với chúng tôi. Với mọi người, ngay cả thầy Bắc có khi không nhớ, nhưng tôi kẻ ăn ké lớp 10K năm 75 thì đây là bữa ăn đặc biệt nên nhớ dai lắm. Rồi các anh nhận giấy báo điểm thi đại học người vừa lòng kẻ không vui. Tôi theo đoàn về lại Miền Nam. Đến giờ trong số lớp 10K năm 75, tôi gặp lại một số người hôm được mời dự họp lớp với các anh chị tháng 7-2012, nhưng còn nhiều người tôi cũng chưa có dịp gặp lại. Riêng anh Trần Văn Hoàng thì gắn bó như anh em ruột thì nay anh đã đi xa mãi mãi.
    Run rủi thế nào sau hai lần đổi quyết định phân công công tác ở Tổ chức chính quyền tôi lại về cùng Công ty với anh. Tôi nhân viên Phòng Kế hoạch, anh trưởng Phòng Kỹ thuật Công ty Khai thác Thủy sản QN-ĐN. Rồi khi di chuyển đoàn tàu đánh cá vào phía Nam, anh trưởng Đoàn tôi làm phó cho anh. Mũi Né - Phan Thiết, Vũng Tàu - Côn Đảo, Kiên Giang- Phú Quốc…những nơi mà anh em chúng tôi đã từng trú ngụ để tổ chức cho đoàn tàu Đà Nẵng di chuyển khai thác hải sản ở những ngư trường mới hiệu quả hơn. Công việc vất vả, nắng mưa, bão gió cộng với nỗi nhớ gia đình…anh em chúng tôi đã thương nhau càng thương nhau hơn. Với thương hiệu HSMN chúng tôi đi đến đâu cũng đều được các anh chị là các cựu HSMN đang là lãnh đạo chính quyền, các công ty… quý mến, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ.
Khi đưa đoàn tàu lên ụ (như một cái hồ nước lớn, có cửa để đưa tàu vào rồi bơm nước ra, tàu sẽ nằm trên cạn ) để sửa chữa sau vụ cá Nam, hợp đồng ban đầu là 40 triệu (vàng 1,5 triệu/lượng), nhưng sau khi thăm hỏi làm quen ông anh giám đốc Xí nghiệp trục vớt Ba Tòng cựu HSMN Đông Triều lứa BTCN, gặp hai thằng em cựu HSMN ĐT lứa sau, “Zui quá, gặp tụi bay zầy là zui rôi! Đi nhậu đã, có món trục lắp hộp số hay lắm. Tụi bay đi zới anh. Nhâu nhiệt tình thì giảm giá, hổng nhệt tình thì có khi giá phải tăng.” Anh Ba Tòng kéo chúng tôi đi nhậu tới bến cấm nói chuyện công việc. Trong khi nhậu anh kể: Hội HSMN Sông Bé (lúc đó còn là một tỉnh) có Đồn điền cà-phê, cao su riêng nên quỹ Hội chúng sung lắm. Có thằng Ba Hiếu PGĐ Sở… tỉnh trù trì. Hội Zũng Tàu bọn tao đã quyết định một thằng trung tá nghỉ hưu để quản lý Nhà máy nước đá của hội, lấy quỹ lâu lâu tụ họp nhậu chơi…Anh quy ước khi triển khai đưa tàu vào ụ, anh Ba chỉ tiếp mấy thằng bay từ 16g30. Ngày hôm sau hợp đồng chỉ còn giá trị dưới 20 triệu đồng. Khi kết thúc hợp đồng, công việc sửa chữa tàu hoàn thành tốt đẹp, anh Ba Tòng nói với tôi: Việc xong, tốt đẹp. Để tạo điều kiện cho anh em mình: Tao làm quyết định thưởng bọn bay, bọn bay thưởng lại anh , mới có tiền nhậu tiếp chứ? Tôi thấy có lý, giá anh Ba giảm cho mình quá hời, công việc lại tiến triển suôn sẻ, nên bàn với anh Hoàng để hợp thức hóa thì thực hiện phương án anh Ba Tòng đưa ra là tối ưu. Dạo đó cơ chế còn bao cấp nên tiền bạc cũng khó khăn, thủ tục cũng khá rườm rà. Anh Hoàng không đồng ý, lý do tiền Nhà nước không đụng đến, anh V Giám đốc tin tưởng hai anh em mình, làm thế tao thấy không hay. Thôi, nói lại anh Ba Tòng thông cảm. Anh Ba Tòng cười, đúng là mấy thằng khu eo, nhác gan thế. Nói thế rồi anh rủ chúng tôi đi nhậu và cười trừ với mấy thằng em HSMN eo.
Thế đó, anh Hoàng của chúng tôi trong công việc thì trách nhiệm đầy mình. Khi ra trường anh xuống trực tiếp làm thợ sửa chữa tàu, anh thuộc từng con bulon ốc vít của tàu cá, nên khi làm trưởng phòng kỹ thuật, chẳng có chú thợ máy nào qua mặt được anh. Công nhân tiện, hàn làm chưa chuẩn anh đứng máy tiện, cầm mỏ hàn làm mẫu trực tiếp cho họ thấy. Trong sinh hoạt thì mẫu mực luôn là người anh cả của chúng tôi. Trong công ty ai cũng yêu mến và tôn trọng anh. Sau đó anh xuống đi tàu Vận tải viễn dương (thời đó là ghê gớm lắm) được ba chuyến đang cải thiện được đời sống, nhưng vì công việc lãnh đạo công ty yêu cầu lên bờ để phụ trách đoàn tàu cá đang khai thác tại Kiên Giang anh sẵn sàng nhận nhiệm vụ khó khăn cực khổ hơn.
     Biết bao nhiêu kỷ niệm về anh, nhưng với bài này làm sao kể hết. Trong bài “Nhậu với Giám đốc Nông trường Quyết Thắng” Nhân vật anh H – trưởng phòng Kỹ thuật chính là anh Hoàng của tôi đó.
Tối hôm trước ngày anh mất, tôi ngồi với anh, khi chỉ còn hai anh em, anh bảo tôi: Mày bóp cái chân anh chút, mỏi quá. Không ngờ đó là những lời cuối cùng anh nói với tôi, sáng hôm sau anh ra đi mãi mãi. Khóc anh tôi không dám khóc thành lời. Anh ra đi tôi thấy “hụt hẫng”. Má tôi khóc: Sao mà nó chết trẻ thế trời ơi. Anh là bạn tâm giao của bà, vài ba hôm lại ghé qua nói chuyện với cụ, cụ coi anh như mấy đứa chúng tôi. Anh thường nhắc nhở anh em tôi còn mẹ là có phúc, bọn bay phải chú ý ngoài việc lo cho bà, còn phải tâm sự hỏi han, người già thích tâm sự. Anh mồ côi cha mẹ sớm, nên thiếu thốn tình cảm, anh luôn coi mẹ chúng tôi như mẹ anh. Anh ra đi cả xóm tiếc thương anh…
Thấy chị Minh Tâm lớp 10K đã đăng bài trên FAC nói về anh Trần Văn Hoàng nhân giỗ đầu của anh trong khi bài này tôi đang viết dỡ dang. Thôi thì bài viết này như nén nhang thắp anh trong ngày giỗ. Sáng ra tôi sẽ qua thắp nhang và dự đám giỗ anh. Tôi sẽ thắp hương thay cho bạn bè anh em không đến được.
   
    Anh Hoàng ơi, ba năm rồi ngày anh đi xa, nhưng em vẫn như thấy bóng anh còn đâu đây, sự hụt hẫng thiếu anh vẫn còn trong em. Trên bàn thờ ảnh anh vẫn nụ cười tươi roi rói.
Trung Thu 2015, Kỷ niệm 3 năm ngày mất của anh Trần Văn Hoàng

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Dũng sĩ Quế (kì II)

Chút chút thôi nha !

        Cuộc họp ngày cuối, đầu giờ chiều tôi nhắn tin cho nó: “Mày có ở BV, khoảng sau 6h chiều tao đến”. Nó nhắn lại: “Ok, cứ đến cổng BV…thì gọi tao”.
Xong họp sớm, tôi tách đoàn và đi taxi đến cổng BV…điện thoại cho nó. Chờ tao tí, có chút việc gần xong. Quán vỉa hè trước cổng bênh viện, tôi gọi chai nước khoáng giải khát và chờ bạn. Rút máy lướt web giết thời gian. Lơ đãng ngắm phố phường trước giờ trời tối. Đường phố ồn ào, xe cộ và người như nêm. Mắt đang bị hút bởi những dòng người xe hối hả khi phố mới lên đèn thì xuất hiện trước tôi một ông cụ dáng đi xiêu vẹo, bước thấp bước cao, tay cầm xấp vé số. Tôi buộc miệng: Vé số! Ông cụ đi về phía tôi: Ông mua vé số? Tôi mời ông ngồi uống nước và thắc mắc với cọc vé số còn dày gần như nguyên xi: Sao giờ này mà còn nhiều vé số  thế ông? (Tôi định gọi chú hoặc bác, nhưng rồi không hiểu tại sao lại gọi ông, có lẽ do mái đầu bạc trắng xóa nhìn như người 80 tuổi). Vé ngày mai đó, vé hôm nay còn lại tôi đã trả lại đại lý rồi. Tôi mua 20 tờ vé số và hỏi chuyện ông cụ về mưu sinh với nghề này có đủ trang trải cuộc sống không? Ông cụ nói cũng tạm qua ngày chờ ngày “tịch”. Ông cụ cũng tiếu lâm ghê. Ông cụ hỏi và gần như tự trả lời: Chú hình như là người Trung? Tôi cũng quê Miền Trung. Chú công tác? Vâng, tôi đi công tác, sáng mai về lại đang chờ gặp người bạn là bệnh nhân đang ở viện? Sao không vào bệnh viện? Người bạn tôi đang đi ra ngoài, tôi đang chờ. Bạn chú bị bịnh chi, nằm ở bệnh viện lâu chưa? Anh ấy bị suy thận phải chạy thận nhân tạo, nghe đâu phải lọc máu ba lần trong tuần, anh ấy ở lại luôn trong  bệnh viện. À, có phải anh  giáo chạy thận mười mấy năm ở bệnh viện này. Tôi bán vé số quanh đây mấy năm rồi, cũng có biết chú đó, cùng quê Quảng Ngãi với tôi, yếu lắm rồi, vợ con ở xa, chú ở một mình nhờ gầm cầu thang trong bệnh viện, lâu lâu mới về nhà lần. Giọng miền Trung của ông cụ pha tạp giống tôi nên tôi thấy dễ gần, cách nói chuyện của ông cụ cũng có duyên, tôi như gặp người được người thân giữa chốn đô thành sầm uất. Ông bán vé số ngoài giọng nói sang sảng và đôi mắt sáng, còn cả người ông là sự tiều tụy, có cảm giác ông mà về miền Trung gặp bão đễ thổi bay mất.  Những ngón tay dài tóp teo cố cầm cho chắc tập vé số. Tôi nhìn dọc cánh tay ông cụ thấy mạch máu nổi lên một đường xanh chạy dọc theo cánh tay lên cổ. Dấu vết của việc chích kim để lại chằng chịt, động mạch cổ của ông cụ còn nổi lên một cục bọng máu to tướng. Ôi đích thị “dân xì”. Tôi đặc biệt dị ứng với dân xì-ke, nhìn kỹ ông này tôi bắt đầu thấy ngán. Tôi hỏi giọng không còn thân mật: Ông chơi ngày mấy “choác” mà chiến tích còn ngổn ngang trên tay, trên cổ thế? Bán vé số có đủ tiền chơi xì không cụ? Mắt ông cụ bán vé số tỏ vẻ ngạc nhiên và khó chịu. Nhưng rồi với giọng ráo hoảnh và đôi mắt trở lại nét dịu ban đầu: Cũng vài lần ngày, bán vé số thì năm khi mười họa, bữa được thì choác có cơm, bữa kém thì chỉ choác còn  nhịn. Biết làm sao được ,số tôi nó sa vào nghiệp chướng, chấp nhận thôi. Nghe ông, sống mũi tôi cay cay. Nhìn ông, tôi thấy ánh mắt ông thoáng vẻ buồn.
          Trời mùa Đông bắt đầu tối dần, đường phố đã lên đèn. Câu chuyện với ông vé số cũng tẻ dần không còn thân mật như ban đầu. Tôi rút điện thoại gọi cho nó, máy ò í e. Chắc là thằng này để máy hết pin. Chờ thêm hơn ba mươi phút mà không thấy nó, đã chậm so với giờ hẹn gần 2 giờ đồng hồ. Các chiến hữu ở Công ty liên tục gọi, tội đành quyết định  lỡ hẹn với nó một lần nữa. Tối nhắn với ông bán vé số ,nếu gặp nó thì nói nó gọi cho tôi. Tôi bắt tay và chào ông vé số bước lên taxi, cuộn vào dòng xe cộ đông đúc của Sài thành.

        Sáng hôm sau, tôi bay chuyến sớm về Đà Nẵng. Trước khi lên máy bay tôi gọi cho nó, máy vẫn tắt. Gọi cho thằng bạn Quế lớp tôi đang ở Sài Gòn. Nó hỏi gặp lớp phó chưa? Tôi nói chưa. Sao thế? Chờ hoài mà hắn không quay lại bệnh viện? Hai giờ đồng hồ chờ nó, tao ngồi ở cổng nói chuyện với ông bán vé số đâu cùng quê nó và cũng biết nó, hình như cha bán vé số nghiện xì-ke mày ạ! Thằng Quế bạn cười ha há thật to. Chắc là thằng lớp phó giận mày bao nhiêu lần đến Sài Gòn mà không thăm nó nên cho mày leo cây. Đến nỗi chi! Tôi chống  chế. Thôi về đi, đến Đà Nẵng mở email sẽ rõ. Tôi đành nghe lời nó thằng bạn Quế miền Trung trụ Sài Gòn, hắn làm thầy giáo mà.

(Còn nữa)  C.