Cóp nhặt được câu chuyện nhiều nghĩa tình bên Bạn trường Trỗi nên bê về để mọi người thưởng thức nhân dịp 8/3 này.
@ Ơn nghĩa khó quên. (Tác giả Quang Anh)
Đến làm khách nhà Cao sếnh sáng (nhà nghiên cứu Hán Nôm Cao Tự Thanh). Cao nói, có người “đặt hàng” viết về phụ nữ miền Nam cho bộ sách “Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử” do hắn làm chủ biên. Hắn muốn tôi tham gia, viết một vài bài gì đó, trong khả năng. Tôi im lặng, vì không biết tiêu chuẩn của người được viết bài phải như thế nào, viết như thế nào thì được chấp nhận và không biết mình có đủ khả năng viết ?.
Trước đây có viết một bài “học và lận đận xin việc làm”, trong đó có nhắc đến vài phụ nữ mà tôi quen, đã giúp tôi xin việc làm. Sau, thấy bài tản mạn quá, nên xóa luôn.
Lời gợi ý của Cao sếnh sáng mở cho tôi một vài suy nghĩ. Tôi đã thụ nhận quá nhiều ơn nghĩa, phải viết cái gì đó để tạm gọi là trả ơn.
Các dì, cô mà tôi có duyên gặp gỡ, bây giờ kẻ còn, người mất, nhưng tình cảm của tôi đối với họ không bao giờ phai lạt.
Tôi sẽ không theo thứ tự cao thấp, lớn nhỏ về địa vị mà chỉ viết theo thứ tự, người quen trước, kẻ quen sau. Vả lại, trong lĩnh vực tình cảm, khó có thể xếp hạng và càng không thể cân đong đo đếm được.
Đối với vùng quê Nam bộ, danh xưng “cậu” và “dì” nghe rất thân thiết. Người Nam bộ mặc dù vẫn trọng cái “họ” (bên Nội), nhưng lại có phần thân thiết với bên Ngoại hơn, vì vậy mà “cậu” và “dì” thường được gọi một cách thân mật. Một ý nghĩa khác, vai “cậu” và “dì” ở Nam bộ bao gồm cả anh, em trai hay chị, em gái của mẹ nên xưng hô rất tiện. Vừa tỏ thái độ thân mật, vừa không hạ thấp vai vế của những người mình mới quen mà không rõ tuổi tác.
Cũng xin nói thêm, ra Bắc lâu ngày, chúng tôi cũng bị ảnh hưởng cách xưng hô của người Bắc. Người Bắc gọi “cô”, “chú” theo nghĩa em của ba, cũng là thể hiện sự thân mật. Dù người được xưng hô có lớn hơn ba, nhưng nghe gọi bằng “chú”, “cô” thì vẫn thích hơn vì nó có ý nghĩa là trẻ hơn ba. Người Bắc chỉ thích làm “lớn” khi chưa thân mật, chứ khi đã thân rồi thì lại thích được gọi là cô, chú cho “trẻ”. Vì vậy trong bài này, có nhiều trường hợp tôi gọi là “cô, chú” theo cách gọi ngoài Bắc, nhưng với thái độ kính trọng, quí mến theo kiểu người Nam bộ.
1. Cô Bảy Nho.
Cô Bảy Nho, là má của cái chuỗi “Dân, Việt, Nam, Quyết, Thắng”. Trong đó, Nam lại là con gái duy nhất.
Đúng ra, hình như cô thứ Sáu trong gia đình, còn gọi “Bảy” là theo thứ của chú Bảy, Vũ Trung Nhung, chồng của cô.
Quê cô ở Vĩnh Long, cùng xã khác làng với cố thủ tướng Võ văn Kiệt. Cả hai có cùng họ Phan, không biết có họ hàng xa gì với nhau ?
Việt là con thứ ba của cô, chơi thân với tôi từ khi mới quen nhau, lúc còn học dự bị đại học. Tốt nghiệp đại học năm 1973, về đến Hà Nội, Việt rủ tôi đến nhà hắn ở, vì biết tôi chẳng có họ hàng thân thuộc gì ở miền Bắc và hiện không có chỗ tá túc.
Thực ra, lúc đó tôi cũng có người bác, là bạn của ba tôi, mà tôi gọi bằng bác Bảy Nên, làm việc tại Bộ Ngoại giao. Lúc nhỏ, bác Bảy thường đón anh, em tôi về nhà nghỉ Tết, hè. Anh em tôi xem bác như bác ruột vậy. Trong thời chiến tranh, bác Bảy đi làm Đại sứ bên Thụy Điển, liên lạc khó, nên tôi chưa biết địa chỉ hiện tại ở đâu, cũng không biết nhà cửa rộng hẹp thế nào, nhà bác lại toàn con gái, nên ở nhà bạn vẫn thích hơn.
Hôm về đến ga Hàng Cỏ, Hà Nội, Duyên và một lũ bạn về nước trước, ra đón chúng tôi. Duyên, học cùng tụi tôi, nhưng “chê chương trình học của Liên Xô kém cỏi”, nên cắp gói về nước trước. Tấn, biệt danh “đầu non”, học ở trường OVIMU là bạn thân của tôi và Việt, cùng về nước trong một chuyến tàu nên cả bọn kéo nhau về nhà Việt. Cô Hương, má của Tấn lại là bạn thân của cô Bảy Nho, nên Tấn đến nhà này cũng như nhà mình.
Vào nhà, tôi mở va li, lấy ra một cái áo biếu cho Duyên. Nói ra mắc cỡ, tôi về nước, chỉ có đúng ba cái áo và một cái quần đang mặc. Cô bảy Nho thấy cái va li nghèo nàn của tôi, bèn tặc lưỡi thán : “Trời ! tao tưởng tụi mày đi Liên Xô thì khá lắm, ai dè nghèo như con chó mực”. Sau đó, cô lẳng lặng ra cửa hàng cung cấp, mua vải, may cho tôi, Việt và Tấn “đầu non”, mỗi đứa một bộ quần áo. Ai đã ở miền Bắc cái thời bao cấp thì biết, hành động này quý hơn bây giờ ta cho nhau một chiếc xe gắn máy.
Tôi ở nhà cô Bảy một thời gian, nhưng nhà này chật chội, đông người và thường xuyên có khách nên không tiện làm phiền, lại cuốn gói ra đi. Lúc này tôi đã có khá nhiều chỗ để tá túc. Tuy nhiên tôi thỉnh thoảng vẫn ghé thăm gia đình cô Bảy.
Ở Hà Nội thời đó, chúng tôi gắn bó với nhau vì rất nhiều lẽ, nhưng trên hết là nhu cầu tình cảm. Vì vậy mà tôi trở thành “người nhà” của gia đình cô Bảy, đến mức đám em của Việt đều xem tôi như anh của chúng.
Tấn đầu non chỉ ở tạm nhà cô Bảy một hai ngày, rồi sau đó về Hà Đông ở với má nó.
Đầu năm 1975, tôi đi B. Trong chiến khu, tôi lại là nhân viên của chú Bảy Nhung nên càng thêm thân mật.
Sau ngày ba mươi tháng tư, cả bọn bạn lại gặp nhau ở Sài Gòn. Nhiều mối quan hệ cũng đã thay đổi, kẻ thân thành sơ, người sơ thành thân. Thêm vào đó, mỗi người lại có những mối quan hệ riêng, không thể chia sẽ cùng người khác.
Dù có vài thay đổi trong các mối quan hệ, nhưng tôi vẫn thường xuyên ghé thăm cô, chú Bảy. Kể cả lúc chú đau nặng phải nằm viện, tôi cũng thường xuyên ghé thăm. Lâu lâu tôi không đến thăm, cô lại nhắc hay hỏi han. Bây giờ, tôi như là người thân của gia đình. Đám giỗ, cưới hỏi gì cũng mời. Có lần cô Nam giận Hai Dân, nó nói : “Thôi để anh AQ làm anh Hai, nghỉ chơi anh Dân”. Tôi là khách thường xuyên của gia đình này, nên người nhà còn biết cả sỡ thích của tôi. Có lần, Út Thắng ở Đức về chơi, Quyết hỏi : “Mày còn nhớ ai đây không ?”, nó lắc. Quyết nhắc : “Mày còn nhớ anh nào, đến nhà mình ăn cơm, mà hay chan canh ?” . “À ! nhớ rồi, anh AQ”.
Các con cô Bảy hầu như đều giống cô ở cái tính tốt bụng, cởi mở, nhiệt tình với bạn bè. Việt học ngành xây dựng ở Leningrad. Mỗi lần tôi ghé chơi ở thành phố này, chủ yếu là tá túc ở chỗ hắn, ăn dầm, nằm dề và bóc lột tiền vé máy bay trở về. Hắn rộng rãi, cởi mở, vui tính nên có nhiều bạn, và với bạn thì hết lòng. Tôi biết, trong quá trình làm việc, thời còn là Phó chủ tịch UBND TP., có nhiều người phê phán Việt. Nhưng hoặc là người đó hiểu lầm, hoặc do hoàn cảnh “chẳng đặng đừng”, vả lại cũng không ai hoàn thiện, nên chuyện lỗi lầm là lẽ đương nhiên. Sau này tôi biết thêm, do chính Việt nói ra, khi làm quan, dù ít hay nhiều, ai cũng có quan tính. Quan tính dễ làm lu mờ nhân tính, nhất là đối với những người không được đào tạo để làm quan, mà quan của chúng ta hầu như không được đào tạo chuyên trách.
Có lần, trong đám cưới con một người bạn, Việt đến sau, vì bàn tôi đang ngồi đã chật, hắn đành ngồi bàn khác và kêu tôi đến ngồi chung. Một quan chức, thấy một nhân vật vô danh như tôi, ngồi kế bên ông Phó chủ tịch, liền mỉa mai : “Sao tôi thấy anh Bảy ngồi đâu, anh cũng theo ngồi kế bên vậy ?”. Tôi bị “quê”, nên im. Việt đỡ lời : “Nó là thằng bạn thân nhất của cả gia đình tao. Tao kêu nó qua ngồi chung, nếu không, nó đâu có thèm ngồi gần”.
Cô Bảy là con người khá đặc biệt, rất hay tự hào về sự nghèo của mình. Gặp cô, trăm lần như một, luôn kể về sự hà tiện của mình, nào là ăn mắm kho quẹt, nào là ăn cơm nguội với muối ớt …nhưng khi cần, cô sẵn sàng bỏ tiền triệu, chục triệu ra giúp người. Việc cô hay kể về sự nghèo hèn của mình, quả là chuyện lạ, vì người ta thường hay khoe giàu, khoe sang, chẳng ai khoe nghèo. Mà cô khoe rất tự nhiên, khoe từ cái lúc tôi mới biết cô, chứ không phải lúc chú Bảy Nhung hay Việt còn làm quan.
Cô từng kể, khi Việt lên làm phó chủ tịch, dượng Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) thấy Việt giống dân lai, liền nói “Việt Nam hết người rồi hay sao mà cho thằng con lai làm lãnh đạo ?”. Chuyện đến tai chú Sáu Dân, là người biết rõ gia đình cô Bảy. Chú Sáu liền nói :“Con lai gì nó, nhà nó nghèo đến mức không có nỗi miếng đất chọi chim”. Kể chuyện này, cô rất tự hào về cái sự nghèo và lối nói ví von của cố thủ tướng “không có miếng đất chọi chim”.
Sài Gòn đất rộng xe đông, đi thăm nhau rất khó khăn. Cái thời ở Hà Nội, bạn bè chúng tôi có thể đi bộ đến thăm nhau, vì khoảng cách không xa và chúng tôi đều còn trẻ. Bây giờ, về Sài Gòn, chúng tôi tất cả đều đã lớn tuổi. Nhà người này cách nhà người kia, ít thì một hai cây số, xa thì mười mấy cây số, việc đi thăm nhau không thể đi bộ được.
Tôi đến thăm, cô nói : “Nhà con xa thế, gọi điện cho cô là đủ rồi, đi làm chi cho mất công, lại tốn xăng”. Tuy nhiên, lâu không tới, cô lại nhắc. Tết hằng năm, tôi đến thăm cô, thường nhận được tiền lì xì, dù nay đã quá lục tuần.