Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

Nghĩ từ thần thoại

http://www.phunuonline.com.vn/the-gioi/nghi-tu-than-thoai-8493/


Biển xuất hiện rất sớm trong văn chương Trung Quốc. Thần thoại kể rằng: con gái nhỏ của Viêm đế đi chơi ở biển Đông (đông Trung Quốc) bị chết đuối, linh hồn hóa làm chim Tinh Vệ, ngày ngày ngậm cành cây, viên sỏi lấp biển.
“Tinh Vệ lấp biển” cùng với “Nữ Oa vá trời”, “Ngu Công dời núi” làm thành bộ ba thần thoại thể hiện ý chí kiên cường (vá trời, dời núi, lấp biển) của dân tộc Trung Hoa. Xưa nay, người Trung Quốc luôn tự hào ngợi ca hình tượng “Tinh Vệ điền hải” này.
Đến đầu thế kỷ XXI lại có bộ phim truyền hình Chuyện nàng Tinh Vệ ngợi ca ý chí lấp biển của con gái Viêm đế. Có thể họ muốn dựa vào ý chí Tinh Vệ để tiếp sức cho hành động đem đất đá ra lấp biển để làm đảo nhân tạo chăng?
Thần thoại là dạng nguyên hợp của tâm thức nhân loại buổi sơ khai. Thần thoại của mỗi tộc người thường, một cách tự phát, vẽ nên những đường nét cơ bản của tâm tính, cốt cách dân tộc mình.
Qua thần thoại “Tinh Vệ lấp biển” có thể thấy mấy “đường nét” chính:
- Con gái nhỏ của Viêm đế chết đuối ở biển đông. Chữ “nịch” (chết đuối) là một chữ hội ý gồm bộ “thủy” (nước) và chữ “nhược” (yếu), yếu trong nước...
- Nhưng lòng căm hận và ý chí của con gái Viêm đế không chết, quyết “lấp bằng biển xanh”.
Công bằng mà nói, ý chí ấy thật đáng nể.
Dân tộc Trung Hoa (gồm 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm 92%, tức hơn một tỷ người) vẫn tự xưng là “Viêm Hoàng tử tôn” (con cháu của Viêm đế và Hoàng đế). Qua sự sáng tạo, truyền tụng và tự hào về hình tượng “Tinh Vệ” có thể thấy “Con cháu Viêm Hoàng” úy kỵ và khước từ biển cả.
Sau thần thoại “Tinh Vệ lấp biển”, người Trung Quốc đã ứng xử thế nào với biển?
Người Trung Quốc vốn yên tâm và tự hào với “Tứ hải chi nội”.Mục “Tứ hải” trong sách Từ hải (Thượng Hải từ thư xuất bản xã 1993) nói rõ: “Vì đời xưa cho rằng bốn phía Trung Quốc là biển nên gọi Trung Quốc là “Tứ hải chi nội”, những nước ở ngoài Trung Quốc thì gọi là “hải ngoại”. (vậy nên thuế xuất nhập khẩu thường thu trên đất liền vẫn được gọi là “thuế hải quan”).
“Tứ hải chi nội” (thường nói tắt là “tứ hải” hoặc “hải nội”) là một cách nói phiếm chỉ, đồng nghĩa với từ “thiên hạ”. Cũng Từ hải nói rõ: “Thiên hạ: thời cổ dùng để chỉ đất đai trong phạm vi Trung Quốc; toàn Trung Quốc. “Thư - Đại vũ mô” (nói rằng): “Ta có bốn biển, làm vua thiên hạ” (Yêm hữu tứ hải, vi thiên hạ quân)” - (Từ hải - tr. 1378).
Vậy: “Tứ hải chi nội” (hoặc “tứ hải”, “hải nội”) = thiên hạ = Trung Quốc.

Người Trung Quốc gặp cái gì rộng lớn mênh mông hoặc sâu thẳm khó dò, hoặc nhiều không kể xiết .... thì gọi là “hải” (biển) để hình dung - chẳng hạn như “tuyết hải” (biển tuyết); “vân hải” (biển mây); “nhân hải” (biển người)... thậm chí rừng mà cũng nói “lâm hải” (biển rừng) và bộ từ điển vào loại có uy tín nhất của Trung Quốc được gọi là Từ hải (biển từ)...
Nhà thơ Trung Quốc đầu tiên thực sự nói đến biển là Tào Tháo (155 - 220), nhưng ông cũng chỉ “quan thương hải” (nhìn biển xanh) mà thôi. Thơ Trung Quốc ít nói về biển và biển thường chỉ xuất hiện trong “mộng”, “tưởng” hoặc trong tầm “nghe”, “nhìn”. Mãi đến cuối đời Tống (960 - 1279), khi nhà Nguyên của người Mông Cổ diệt nhà Tống, Tả thừa tướng Lục Tú Phu (1236 - 1279) cõng ông vua ấu thơ Đế Bính (vua cuối cùng của nhà Nam Tống) nhảy xuống biển tự tận. Nhà Tống mất, Trung Quốc bị người Mông Cổ thống trị trăm năm.
Thế giới, cuộc đời luôn vận động - biến dịch vô thường. Thời cổ, con gái Viêm đế từng “yếu trong nước”, nhưng “con cháu Viêm Hoàng” không mãi mãi “yếu trong nước” như vị “tổ cô” của mình. Sử sách còn ghi “trong khoảng 28 năm từ 1405 đến 1433, Trịnh Hòa (1371 - 1433) đã phụng mệnh triều đình nhà Minh, suất lĩnh đội quân hàng hải đông đúc, bảy lần “xuất sứ” đến hơn 30 nước và địa khu ở Á - Phi. Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử hàng hải và ngoại giao Trung Quốc....”.
Nếu sử sách Trung Quốc ghi chính xác thì người Trung Quốc đi tàu viễn dương sớm nhất thế giới. Sở dĩ nói “nếu... chính xác” là vì: tuy các học giả, cả phương Đông và phương Tây, phần lớn đều thừa nhận Trung Quốc là “xứ sở của sử gia”, sách lịch sử của Trung Quốc nhiều vô địch, nhưng độ tin cậy không cao, cùng một sự kiện mà các sách ghi khác nhau khá nhiều (có thể hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Trung Quốc).
Có lẽ việc Trịnh Hòa “hạ Tây dương” là có thật, và từ đời Minh (1368 - 1644) người Trung Quốc đã mở ra “con đường tơ lụa” trên biển, tàu buôn Trung Quốc đã từng đến Đại Việt nên người Việt ta mới gọi họ là “người Tàu”. Nhưng đến đời Thanh (1644 - 1911) họ lại coi thường (nếu không nói là “sợ”) việc đi biển. Đặc biệt đến cuối đời Thanh thì sự “dị ứng” với biển càng nặng, đến mức Từ Hi thái hậu (1835 - 1908), kẻ nắm đại quyền của triều đình Mãn Thanh đã “di dụng” kinh phí hải quân vào việc “trùng kiến Di Hòa viên” vì bà ta và đám đại thần nhà Thanh bấy giờ cho rằng “... Nước Trung Quốc ta toàn là đất liền thì dùng hải quân làm quái gì...”
Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc ghi nhận: “Năm Quang tự thứ 21 (1892) bỏ hẳn “hải quân nha môn”. Di Hòa viên xây dựng gần 10 năm, chi phí khoảng sáu triệu lạng bạc”!
Khi liên quân tám nước (Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Nga, Mỹ, Nhật) đổ bộ vào cảng Thiên Tân rồi chiếm Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu cùng Quang Tự hoàng đế và đám đại thần dắt díu nhau chạy trốn vào Tây An. Liên quân tám nước phá Di Hòa viên, “qua phân” (mổ dưa) Trung Quốc.
Chính vì triều đình Mãn Thanh coi thường (thực chất là sợ) đi biển như thế nên Lương Khải Siêu (1873 - 1929) mới yên tâm thực hiện cuộc “viễn du” lánh nạn sau thất bại của cuộc “Duy tân 100 ngày” (bách nhật duy tân).
Nhờ có tàu “viễn dương” từ Nhật sang Mỹ mà vị lãnh tụ của phong trào cải lương không bị “nịch tử”, cũng không có ý “lấp biển” như Tinh Vệ. Biển giúp ông lánh nạn khi lục địa Trung Hoa dậy sóng. Ông yên tâm “tác viễn du” vì biết chắc triều đình nhà Thanh nhát gan bất lực không thể vượt biển sang Mỹ truy nã mình.
Thế giới biến dịch vô thường...


THƯỜNG NHIÊN

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

Trên



SÂN GA
Đứa ở trên toa, đứa dưới tàu
Tôi về em ở nhớ thương nhau
Mà mưa ướt lạnh, trời mưa ướt
Có phải chăng đây những giọt sầu ?


Đây cuộc chia xa khá ngậm ngùi
Hợp tan, tan hợp nhói tim tôi
Bao năm chung sống thành tri kỷ
Em ở, tôi về nhớ mãi thôi ...

Tôi thương em lắm tuổi chín mười
Sống xa cha mẹ, cảnh mồ côi
Cơm thố, giường đơn, chăn chiếu mỏng
Mấy mùa đông lạnh buốt tim tôi

Ở lại quê người em nhớ không
Tôi về thương lắm những mùa đông,
Áo cũ, chăn sơ không đủ ấm ...
Con tàu chuyển bánh nhớ mênh mông ...
                     
                                         Đầu Thu năm 1973 VAV
                                              ( Một thời để nhớ - Tặng Quế về sau 1973 )





Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

MV 0076

MVI 0079

MVI 0078

KỶ NIỆM 50 NĂM THÀNH LẬP TRƯỜNG NVT

Năm mươi năm mới có một lần 50 năm. Đợt này Trỗi  tổ chức "sinh nhật" Trường khá hoành tráng. Tất nhiên, khách mời không thể thiếu các bạn trường Bé- người anh em thân thiết.

Do các quế không tự giới thiệu nên tôi vẫn chưa biết tên các đ/c. Các quế giúp cho.

đ/c tóc bạc đứng sau là AMK3- nguyên "Mama đại tổng quản"Blog Quế


Tôi mời chị Phan thị Quyên chụp chung với Quế. Một chút kỷ niệm gọi là...




Đại diện trường NVB phát biểu ...



giao lưu


chỉ có Quế mới hiểu ?!

Giao lưu văn nghệ

Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2015

Dương Sóc

THỨ HAI, THÁNG 11 05, 2007

   Thanh Minh

(Có sử dụng tư liệu ảnh của HT)
Đi TQ có mấy ngày mà thấy nhãn quan anh em mình khai mở ghê quá. Kiểu này e dân du lịch ba lô sẽ thành những người thông thái nhất thế giới!?
Cái hay của chuyến đi chính là cùng một sự vật, hiện tượng nhưng mỗi người lại có cách nhìn, cách cảm nhận khác nhau - theo kiểu của mình. Thế giới trở nên đa dạng vì thế, và đây cũng là điều làm cho các chú ở nhà cứ phải liếm mép.
Tôi cũng vậy. Có thể mắt mình bị “lé”, nên hay nhìn thấy những chuyện vặt vãnh để bổ khuyết vào cái nhìn chính thống, tầm cỡ của anh em. Mong sao bức tranh mô tả TQ được toàn cảnh.
- Đầu tiên phải nói đến nghệ thuật moi tiền du khách của anh Ba mình quá giỏi. Bạn nghĩ gì khi chi 2,5 triệu VNĐ cho chuyến du lịch 5 ngày, 4 đêm gồm cả ăn, ở đàng hoàng? Rẻ bất ngờ đến vô lý … Song “võ Tàu”chính là ở đây. Họ mở rộng cửa đầu này nhưng lại xiết chặt cửa đầu kia. Mình cảm thấy mỗi cái cây, dòng sông, mỏm đá, được họ đầu tư thêm chút đỉnh, đều có thể biến thành những cỗ máy in tiền. Các dịch vụ tham quan thắng cảnh, di tích lịch sử … họ “chặt” khách rất ác (xem giá biểu ở các bài khác), mà khách du lịch thì không thể nằm khách sạn đóng cửa ngủ cho nó … lãi được! Kế ấy gọi là “thả con săn sắt bắt con cá rô”.
- Năm xưa vào nhà hàng hải sản ở phố Thi Sách SG. Tôi thấy lão chủ quán cắt một bài báo, lồng kính treo trang trọng lên tường. Đó là bài viết về Vua bếp của Bỉ đến nhà hàng, xơi món cua rang me VN và khen nức nở. Đấy cũng là một cách tiếp thị hay.
Tôi rất thích và ấn tượng với các bài nhận xét của các thực khách TQ dán đầy tường của quán “Điền Dã” trong ảnh của HT (tôi có 1 cái ảnh chụp chi tiết, bạn nào dịch thử?). Các bài do bọn trẻ viết và vẽ trên giấy tập học sinh rất trào lộng. Cháu Việt Hoa (con chị Niệm), dịch thử cho tôi một bức tranh khác vẽ 3 thằng xì-tin đeo kính đang ngồi gắp con cá với lời chú “3 người, 12 con mắt và 1 con cá rất ngon” (12 con mắt là 3 thằng đeo kính cận). Có phải đây cũng là một dạng văn hóa?
Con cá khuyến mãi trong ảnh tên gọi là “Cá Ly Giang” danh từ riêng (mà cũng là cá sông Ly). Con này giống cá ngạnh của ta nhưng người tròn lẳn, da đen và thịt trắng tinh, ngọt và thơm ngon hơn.
Bên dưới là ảnh bình rượu Lão QL “đi” cùng con cá. Hẳn món này cũng làm nên đặc sản QL.
- Tôi ngắm rất lâu con chim cốc của sông Ly như một nhà điểu học. Bên ta không có con cốc loại này. Cốc ta có 2 tên gọi (cốc ngoài Bắc) và con cồng cộc (trong Nam). Con cốc của ta đen thui nhỏ chưa bằng nửa con cốc ngoại.
Cốc ngoại to con, lông đen hơi xám và bộ mặt cô hồn, dữ tợn hơn. Chúng đều bắt cá rất giỏi. Sau khi huấn luyện, người ta dùng chúng lùa cá vào lưới bén hoặc đeo vòng vào cổ chúng, để chúng chỉ có thể bắt cá đưa lên mà không nuốt được mồi. Con người quả ranh ma.
Ngày xưa con cốc QL chỉ đậu trên những chiếc bè lồ ô uốn cong đầu, xuôi ngược trên dòng Ly thơ mộng. Ngày nay con cốc được huy động như một minh tinh, chụp ảnh chung với du khách làm nên những đồng tiền cho chủ …
- Quế hoa: Mỗi địa phương thường chọn cho mình một loại cây làm biểu tượng: Dừa bến Tre; cây cọ Malaixia; cây tre VN, hoa sữa HN, bạch dương Nga, … con người sẽ đi rất xa và ấp ủ trong lòng loài cây mà mình yêu mến như một kỷ niệm quê hương …
Cây quế hoa biểu tượng của QL giống như cây viết bên mình (trồng trong BV Thống nhất), nó thuộc loại cây bóng mát tầm thấp (ít rụng lá , sạch, tán đẹp, không mọc cao để khỏi đụng dây điện). Loại này có hoa màu trắng hoặc vàng nhỏ li ti (xem ảnh), tỏa hương thơm ngầy ngật như hoa sữa. Trong mỗi túi quà của Y Trung có bỏ một nhánh quế hoa. Tôi còn bẻ thêm một nhánh mang về định vặt lá “bán” cho anh em làm kỷ niệm và kiếm chút tiền bù lỗ …
Nhiều anh em nhầm lẫn, vỏ cây quế hoa hoàn toàn khác với quế vỏ bên mình. Nó không có mùi quế và cũng chẳng cay cho nên công dụng của nó chắc chỉ nhằm tạo bóng mát, cảnh quan và gợi lên những hoài niệm xa mờ …
- Cuối cùng là cái tên Dương Sóc. Có người trong đoàn thắc mắc về cái tên này: Đã “dương” rồi lại còn đòi “sóc”nữa. Em chịu, cái này vượt quá tầm hiểu biết, chắc phải cậy anh Chí – nhà nghiên cứu văn hóa tra cứu giúp!
Dân làm du lịch nói chưa “đáo” DS thì coi như chưa đến QL. Khi mình đến DS chúng lại bảo chưa “đáo” phố Tây thì chưa biết DS. Tôi đến đầu phố Tây, thằng guide DL nó nói cái hay, cái đẹp nó nằm ở giữa phố kia, thế là lại phải “đáo” tiếp đến giữa phố. Lòng tự hỏi lòng “mình có thấy gì không nhỉ?”. Đang ngơ ngác thì lại nghe lời động viên – nơi tuyệt vời nhất là đoạn cuối phố, …
Chân đưa chân, du khách thẫn thờ. Cuối phố là đây, bến tàu đang đợi. Một một ngư ông với hai con cốc trên sào chờ chụp ảnh. Trên bờ kè hai cô gái Tây ba lô nằm, ngồi chết vật - chắc họ cũng vừa phải “đáo” như ta!




* Nhân chuyện Quế đi QL tôi gửi các bạn bài này (trên Blog Trỗi 2007) đọc cho vui.